Chuyển đổi số trong các trường Công an nhân dân
Thực hiện Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai Chương trình chuyển đổi số.
Trong đó, mục tiêu chuyển đổi số đối với ngành Giáo dục là “Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa”.
Khi tiếp cận với chuyển đổi số trong ngành Giáo dục, chúng ta sẽ bắt gặp nhiều khái niệm mới như đại học thế hệ thứ ba, đại học 4.0, đại học thông minh định hướng đổi mới sáng tạo và đại học số. Các khái niệm này đều hướng tới việc phát triển một cơ sở giáo dục ở một tầm cao mới, trên cơ sở thay đổi mạnh mẽ đại học và khai thác triệt để lợi thế cuộc cách mạng 4.0 mang lại nhằm mục đích đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng đáp ứng và làm chủ khoa học công nghệ. Theo Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đối số là số hoá tổ chức, số hoá theo chiều ngang, đưa toàn bộ hoạt động của tổ chức lên môi trường số và thay đổi cách vận hành của tổ chức. Đây cũng chính là bản chất của quá trình chuyển đổi số trong giáo dục. Theo trục dọc của hệ thống, mục tiêu của việc chuyển đổi số ở cấp Chính phủ là xây dựng Chính phủ số, ở cấp chính quyền là chính quyền số và do đó ở các trường đại học là xây dựng Đại học số. Đây cũng là khái niệm bao quát nhất để bao hàm các khái niệm trên.
Lộ trình phát triển tới đại học số (Nguồn Học viện BCVT).
Chuyển đổi số trong GDĐT gồm hai nội dung lớn là quản lý giáo dục và dạy học. Chuyển đổi số trong quản lý giáo dục bao gồm việc xây dựng các cơ sở dữ liệu lớn liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng công nghệ 4.0 (AI, blockchain, dữ liệu lớn…) để phục vụ công tác quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định một cách nhanh chóng, chính xác. Chuyển đổi số trong dạy học (dạy, học, kiểm tra, đánh giá và nghiên cứu khoa học) hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu về học liệu (tài liệu, giáo trình, bài giảng…), thư viện số, phòng thực hành ảo (thao trường mạng, phòng thực tại ảo…); kết hợp hiệu quả giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến; xây dựng chương trình hiện đại, đổi mới sáng tạo; ứng dụng công nghệ hiện đại phục vụ giáo dục, đáp ứng yêu cầu đào tạo cá thể hóa …
GDĐT nói chung và giáo dục đại học nói riêng cần tiên phong trong chuyển đổi số vừa để phát triển các trường lên tầm cao mới, vừa tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Để chuyển đổi số được triển khai và phát huy hiệu quả, phải ứng dụng và tranh thủ tối đa thành tựu khoa học 4.0 vào thay đổi tổ chức, trong đó hạ tầng số đóng vai trò then chốt. Việc ứng dụng các thành tựu này tại các cơ sở giáo dục đại học khá thuận lợi, dễ dàng vì có thể dựa trên hạ tầng phổ biến như thiết bị di động kết nối không dây, dịch vụ Internet để có thể triển khai nhanh, chi phí thấp, nhiều dịch vụ miễn phí, khả năng hợp tác quốc tế sâu nên kế thừa được nhiều lợi thế và nhận được nhiều hỗ trợ. Tuy nhiên, tại các trường Công an nhân dân (CAND) có đặc thù về dữ liệu, đối tượng, hạ tầng nên có nhiều khó khăn trong triển khai chuyển đổi, và cần có những cách tiếp cận đặc biệt khác để đáp ứng xu hướng tương lai và đảm bảo tuân thủ các quy định.
Một trong những điểm đặc biệt tạo nên sự khác biệt lớn với các trường ngoài Ngành là trong các trường CAND có nhiều nội dung thuộc quản lý, giảng dạy và nghiên cứu thuộc danh mục bí mật Nhà nước (gọi tắt là dữ liệu mật). Do đó, hạ tầng kỹ thuật đảm bảo lưu trữ, xử lý, khai thác dữ liệu phải được triển khai thành 3 nhóm độc lập, không đồng bộ, liên thông với nhau và có điều kiện quản lý với nhiều ràng buộc để đảm bảo yêu cầu bảo vệ bí mật Nhà nước. Hạ tầng kỹ thuật có thể chia làm 3 loại: hạ tầng cơ yếu (hay các máy tính độc lập) dành cho dữ liệu mật, hạ tầng nội bộ dành cho dữ liệu nội bộ và hạ tầng Internet. Trong đó, hạ tầng cơ yếu và nội bộ đóng vai trò chính vận hành các dữ liệu, quy trình công tác trong các trường CAND, hạ tầng Internet đóng vai trò thứ yếu. Như vậy, so với các trường ngoài Ngành, trụ cột hạ tầng có sự khác biệt lớn, phân tán và không kết nối, do đó sự kế thừa và kết nối với môi trường thế mạnh cho chuyển đổi số là Internet hầu như bị hạn chế.
Từ thực tế trên, quá trình thực hiện chuyển đổi số trong các Học viện, trường CAND gặp những khó khăn như sau:
Thứ nhất, về hạ tầng, với yêu cầu đặc thù nên hạ tầng kết nối không dây và dịch vụ Internet không được sử dụng, nên không thể ứng dụng đầy đủ thành tựu chính của cách mạng 4.0 như IoT (Internet of Things) vào trong chuyển đổi số. Ngược lại, các trường CAND phải triển khai và duy trì 3 hệ thống độc lập vật lý, nên cần chi phí đầu tư và nguồn nhân lực triển khai, duy trì lớn.
Thứ hai, về nguồn nhân lực, để đảm bảo yêu cầu tiếp cận thông tin và quy trình bảo mật, nguồn lực triển khai và duy trì đóng vai trò chủ chốt phải là nguồn lực nội bộ trong Ngành, rất nhiều nhiệm vụ không thể thuê nhân lực hay dịch vụ ngoài.
Thứ ba, về công nghệ, do hạ tầng triển khai chủ lực không kết nối Internet nên không thể khai thác lợi thế là các dịch vụ đám mây, các dịch vụ miễn phí hiện có ưu tiên hỗ trợ cho giáo dục. Các giải pháp phải xây dựng độc lập, với nhiều yêu cầu đặc thù nên dễ bị lạc hậu, chi phí triển khai cao, yêu cầu bảo mật khắt khe.
Thứ tư, về dữ liệu, các cơ sở dữ liệu độc lập nên không kế thừa được hoặc chậm cập nhật so với các hệ thống kết nối Internet.
Thứ năm, cơ chế chính sách và cơ sở pháp lý của Bộ Công an trong việc chuyển đổi số của một số lĩnh vực còn gặp một số vấn đề bất cập, chưa theo kịp được với thực tế.
Thứ sáu, sức ép để phải thực hiện chuyển đổi số chưa đủ lớn, cũng như nhận thức của một số lãnh đạo đơn vị, cán bộ, chiến sĩ chưa đầy đủ về ý nghĩa của chương trình chuyển đổi số, còn ngại thay đổi và tiếp cận những vấn đề mới.
Cuối cùng là về chi phí, các trường đại học đa phần theo cơ chế tự chủ tài chính còn các trường CAND theo sự đầu tư kinh phí của Nhà nước nên không thể chủ động chi phí cho đầu tư phát triển. Với các trường ngoài Ngành, đẩy mạnh chuyển đổi số góp phần nâng cao chất lượng và thương hiệu của các trường nên việc tái đầu tư cho chuyển đổi số sẽ diễn ra nhanh chóng. Đồng thời, áp lực phải chuyển đổi số tại các trường này lớn hơn để hội nhập quốc tế, đảm bảo chuẩn đánh giá xếp loại và tương thích với các trường khác trong hệ thống liên kết.
Để khắc phục những khó khăn trên, hướng tới việc thực hiện chuyển đổi số đạt được hiệu quả trong các trường CAND cần giải quyết được những vấn đề sau:
Một là, Bộ Công an và đơn vị chức năng cùng với các trường CAND cần có sự định hướng chiến lược để xây dựng mô hình chuyển đổi số phù hợp với đặc thù của Ngành. Trong đó, cần xây dựng mô hình tổng thể phù hợp để phát huy tối đa lợi thế công nghệ 4.0, có thể liên thông dữ liệu cơ sở liên thông theo chiều dọc (từ các cơ quan bộ đến các trường, giữa các trường), chiều ngang (giữa các đơn vị trong các trường) và dễ dàng nhân rộng khi triển khai thí điểm thành công tại một số đơn vị. Phải xác định hạ tầng trọng tâm nhất để thực hiện các hoạt động chuyển đổi số là hạ tầng nội bộ của các trường CAND, có thể liên thông với mạng nội bộ của Bộ Công an, còn môi trường Internet là hỗ trợ. Đồng thời, cần có chiến lược đầu tư dài hạn, có trọng tâm, đảm bảo hạ tầng đồng bộ, hiện đại.
Hai là, Cục đào tạo kết hợp với các trường CAND cần quyết liệt đẩy nhanh tiến độ triển khai chuyển đổi số. Công việc quan trọng đầu tiên là tuyên truyền, đẩy mạnh nhận thức về chuyển đổi số, tiếp đó tạo ra các sức ép bắt buộc phải cải cách bằng chuyển đổi số; hoàn thiện hệ thống chính sách, thúc đẩy việc cải tiến quy trình công tác, thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng chương trình và phương pháp đào tạo; chuẩn hóa các quy trình chung trong các đơn vị để làm cơ sở liên thông theo chiều dọc, chiều ngang và đảm bảo khi một hệ thống hoạt động tốt tại một đơn vị thì có thể nhân rộng.
Ba là, các đơn vị cần tập trung xây dựng nguồn lực tại chỗ để đảm bảo lực lượng triển khai, quản trị và tự chủ công nghệ trong phát triển các phần mềm. Tự xây dựng phần mềm là cơ sở quan trọng để đảm bảo yêu cầu an ninh, an toàn và bảo vệ bí mật nhà nước ở tất cả các khâu từ xây dựng, triển khai đến vận hành. Ngoài lực lượng chuyên trách của Bộ, các trường CAND cần xây dựng lực lượng chuyên trách riêng và phát huy đội ngũ nghiên cứu khoa học trong mỗi đơn vị để có thể phát triển các sản phẩm mới, làm chủ các sản phẩm được triển khai, tự quản trị được hệ thống. Phát huy tốt sản phẩm nghiên cứu khoa học cũng sẽ nhanh chóng áp dụng lợi thế của công nghệ 4.0 với chi phí thấp, kèm theo đó huy động được nguồn lực vốn dành cho khoa học công nghệ trong chuyển đổi số, cũng là góp phần đẩy nhanh việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu của nhà trường vào thực tiễn.
Bốn là, Bộ Công an cần có kế hoạch để các đơn vị chức năng phối hợp cùng các trường CAND hoàn thiện hành lang cơ sở pháp lý, để tạo điều kiện thuận lợi cho triển khai các nhiệm vụ chương trình chuyển đổi số tại các Học viện, trường CAND.
Công cuộc chuyển đổi số trong các trường CAND là tất yếu, phù hợp với yêu cầu của Chính phủ và phù hợp với xu thế chung của thế giới. Tuy nhiên, để có thể chuyển đổi số thành công cần phải giải quyết rất nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng, về yêu cầu quản lý và triển khai trong Ngành Công an. Do đó, để công cuộc chuyển đổi số được triển khai thực hiện thì trước hết bản thân các trường cần phải tự xây dựng một kế hoạch chuyển đổi số phù hợp, khoa học, tận dụng mọi tài nguyên, nguồn nhân lực và hỗ trợ từ Bộ Công an và xã hội./.
Thiếu tá, TS Trần Nghi Phú - Phó Chánh văn phòng Học viện ANND.
Tag: Chuyển đổi số
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
- Thư mời tài trợ và tham gia triển lãm công nghệ
- Phần mềm công nghệ cao hỗ trợ cảnh sát giao thông
- Nhiều giải pháp được đưa ra tại Hội nghị Thành phố thông minh Việt Nam 2021
- Chủ tịch nước: Không nên kéo dài, lùi cải cách tiền lương quá lâu
- Chủ tịch nước: Việt Nam chung nhịp đập sẻ chia, hợp tác, cùng thắng đại dịch
BÌNH LUẬN
MỚI NHẤT
XEM NHIỀU NHẤT
-
Tuyển sinh Khóa 55 đào tạo trình độ đại học chính quy tuyển mới công dân tốt nghiệp trung học phổ thông của Học viện An ninh nhân dân năm 2023
-
Quy trình tiếp nhận, kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm của Công an xã
-
Thông báo về việc ban hành đề cương đề thi, đề thi tham khảo dùng trong tuyển sinh đào tạo trình độ đại học chính quy tuyển mới công dân có bằng tốt nghiệp trình độ đại học trở lên, năm 2023
-
Công bố quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an về việc nghỉ công tác chờ hưởng chế độ hưu trí đối với Trung tướng, PGS.TS Lê Văn Thắng và trao quyết định điều động Đại tá, PGS.TS Trịnh Ngọc Quyên giữ chức vụ Giám đốc Học viện An ninh nhân dân
-
Học viện An ninh nhân dân và Công an TP Hồ Chí Minh ký kết ghi nhớ hợp tác
-
Đảng ủy Học viện An ninh nhân dân tổ chức hội thi Bí thư chi bộ giỏi năm 2023